Lồng ghép Địa lí địa phương trong giảng dạy môn Địa lí
Tổ Sử-Địa-GDCD
2018-03-03T19:07:15-05:00
2018-03-03T19:07:15-05:00
https://thptphuquoc.edu.vn/bai-viet-26/long-ghep-dia-li-dia-phuong-trong-giang-day-mon-dia-li-82.html
/themes/default/images/no_image.gif
Trường THPT Phú Quốc
https://thptphuquoc.edu.vn/uploads/baner-thpt-phu-quoc.jpg
Thứ bảy - 03/03/2018 19:06
Đây là một trong những giải pháp giúp cho học sinh có thêm những hiểu biết về kiến thức Địa lí của quê hương mình. Đồng thời sẽ giúp cho tiết học sinh động hơn.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số (do Thường trực Hội đồng ghi):…………
1. Tên sáng kiến: “Phương pháp lồng ghép giáo dục Địa lí địa phương vào một số bài dạy”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lý giáo dục.
3. Mô tả bản chất của giải pháp:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
3.1.1/ Hiện trạng và hạn chế trước khi áp dụng giải pháp mới:
- Trên thực tế, qua một số khảo sát học sinh ở trường THPT Phú Quốc trong những năm trước đây cho thấy, đa số các em không hiểu nhiều về địa lí địa phương mình. Nguyên nhân chính là do việc giảng dạy Địa lí địa phương chưa được đầu tư đúng mức, chưa có sự sáng tạo để mang lại sự hứng thú cho học sinh.
- Đối với các bộ môn, mỗi bài giảng trên lớp, cả Thầy và Trò chỉ cơ bản là trao đổi, thảo luận các vấn đề liên quan tới nội dung gò bó trong bài dạy, ít có cơ hội mở rộng vấn đề bên ngoài thực tế.
- Giúp học sinh có cơ hội để thể hiện một số khả năng của bản thân về môn học như: khả năng vận dụng những kiến thức lí thuyết vào thực tiễn, khả năng nhớ kiến thức lâu, khả năng hùng biện, khả năng tư duy, khả năng sáng tạo…
- Học sinh lười học bài, lười hỏi bài, lười trao đổi bài… từ đó sẽ tạo tâm lí lười đào sâu kiến thức, lười cập nhật số liệu mới, lười thay đổi phương pháp… ở chính những người giáo viên.
- Như vậy, công tác giảng dạy Địa lí địa phương có hiệu quả phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là: Học sinh phải lĩnh hội đủ kiến thức cần thiết về địa phương (Tự nhiên, kinh tế - xã hội, các vấn đề mà địa phương đang đối mặt).
Hai là: Giáo viên phải tạo cơ hội để học sinh chủ động tìm đến với những kiến thức kể trên.
Ba là: Học sinh phải có được sự hứng thú, niềm đam mê trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu.
- Trên thực tế trong những năm qua, giảng dạy Địa lí địa phương chỉ đáp ứng được yêu cầu thứ nhất. Còn hai yêu cầu còn lại gần như chưa thực hiện được. Vì vậy học sinh rất mau quên những thức mà mình đã được học.
- Để giải quyết vấn đề trên, tôi đã đổi mới phương pháp lồng ghép giáo dục Địa lí địa phương vào một số bài dạy.
3.1.2/ Ưu điểm trước khi áp dụng giải pháp mới:
- Học sinh chỉ phải học những kiến thức trong bài dạy trên lớp.
- Điểm cuối kỳ và cuối năm cơ bản là trên trung bình.
- Học sinh không phải mất thời gian tìm tòi, nghiên cứu về các chuyên đề để củng cố thêm kiến thức cho bài học.
3.2/ Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
3.2.1/ Mục đích của giải pháp:
- Theo Điều 23 của Luật Giáo dục quy định mục tiêu của giáo dục phổ thông là: "giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Trong khi đó môn Địa lí là môn học nâng cao trí tưởng tượng và óc thẩm mĩ; rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng có ích trong đời sống và sản xuất. Cùng với các môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho học sinh ý thức trách nhiệm, lòng ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước. Vì vậy, Địa lí là môn học không thể thiếu được trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông.
- Để thực hiện mục tiêu giáo dục, Luật Giáo dục năm 2005 đã quy định nguyên lý giáo dục là: "Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội".
- Trong chương trình giáo dục quốc dân, Địa lí là môn học được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông nhằm mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khoa học địa lí, cũng như vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước.
- Để làm được điều đó thì Địa lí địa phương đóng một vai trò quan trọng. Bởi lẽ, Địa lí địa phương là một bộ phận và có liên quan mật thiết với địa lý Tổ quốc nên kiến thức Địa lí địa phương có vai trò là cơ sở để học sinh nắm kiến thức Địa lí Tổ quốc. Chính việc giảng dạy Địa lí địa phương tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tìm hiểu và đánh giá đúng tiềm năng các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và thực trạng kinh tế - xã hội của địa phương, từ đó giúp họ định hướng nghề nghiệp, lao động sản xuất. Những kiến thức địa lí địa phương mà nhà trường trang bị cho học sinh nếu có giá trị thực tiễn sẽ tạo điều kiện để học sinh có thể vận dụng được vào công việc lao động sản xuất tại địa phương, tham gia cải tạo xây dựng quê hương giàu đẹp.
- Xuất phát từ yêu cầu trên, chương trình môn Địa lí đã có nhiều bổ sung phần Địa lí địa phương nhằm theo kịp xu hướng chung của giáo dục hiện nay. Mục tiêu của giáo dục Địa lí địa phương là giúp cho học sinh có được các kiến thức qua việc học tập trên lớp, khảo sát, nghiên cứu, tạo điều kiện cho học sinh hiểu rõ thực tế, về những khó khăn và thuận lợi của tự nhiên, dân cư và kinh tế xã hội ở địa phương. Qua đó giúp cho học sinh có ý thức tham gia cải tạo, xây dựng địa phương, đồng thời bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp đối với quê hương đất nước.
- Ngoài ra còn rèn luyện kĩ năng khảo sát, nghiên cứu, khảo sát, điều tra, quan sát, phân tích, vẽ, thiết lập các số liệu, biểu đồ, bản đồ...
- Bước đầu tập cho học sinh làm quen với tính chất và công việc của công tác nghiên cứu khoa học. Từ đó, giúp cho học sinh bồi dưỡng thế giới quan khoa học, phát triển năng lực trí tuệ và những kỹ năng thực tiễn. Mặt khác, bài giảng Địa lí có sự liên hệ, chứng minh bằng thực tiễn nơi các em đang sinh sống và học tập sẽ trở nên hấp dẫn và có tính thuyết phục với học sinh hơn.
- Theo yêu cầu của Bộ GD – ĐT phải kết hợp giảng dạy lí thuyết với các hoạt động thực tiễn như tham quan, dã ngoại, thực hành…nhưng hiện nay hầu như chỉ mới tiến hành dạy lí thuyết, các hoạt động thực hành chưa triển khai được do thiếu thời gian, khó khăn về kinh phí.
- Bên cạnh đó, môn Địa lí là một môn khoa học rất gần gũi với cuộc sống đời thường thông qua môn học, các em được cung cấp những kiến thức cơ bản về Trái Đất, môi trường sống của con người, những hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của loài người trên Trái Đất. Vậy học Địa lí như thế nào để đạt kết quả cao, đòi hỏi những người thầy, người cô là giáo viên giảng dạy môn địa lí phải lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn, phải tìm ra những giải pháp giúp cho các em học sinh nhận thức được vai trò thực sự của môn Địa lí đối với cuộc sống thực tiễn.
- Tuy nhiên, qua thực trạng và hạn chế đã nêu cho thấy thực tế môn Địa lí chưa được đánh giá đúng tầm, chưa được coi trọng đúng nghĩa và cũng chưa có nhiều ngành nghề lựa chọn môn Địa lí trong các khối thi…
- Như vậy, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của xã hội, giáo viên phải tích cực chủ động trong việc đổi mới phương pháp và đa dạng hóa các hình thức dạy học để giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động nhất, chất lượng nhất, hiệu quả nhất.
- Từ thực tế đó, bản thân tôi đã suy nghĩ, tìm tòi và mạnh dạn thay đổi cách thức giảng dạy Địa lí địa phương và đã thu được kết quả khả quan. Để có thể chia sẻ cùng Quý Thầy Cô và các đồng nghiệp một số kinh nghiệm trong quá trình thực hiện, hôm nay tôi xin được trình bày đề tài: “Phương pháp lồng ghép giáo dục Địa lí địa phương qua một số bài dạy”. Tôi mong rằng với đề tài này sẽ là một gợi ý để Quý Thầy Cô và các đồng đồng nghiệp có thể tham khảo trong quá trình giảng dạy Địa lí địa phương của mình.
3.2.2/ Nội dung giải pháp
a. Tính mới và khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:
* Đối với giáo viên:
- Địa lí địa phương phải tạo điều kiện để học sinh có thể học trên lớp, nghiên cứu khảo sát ngoài thực địa, phân tích, tổng hợp, trình bày quan điểm cá nhân một cách khoa học. Để làm được điều đó, bản thân mỗi giáo viên ngoài việc cần dành nhiều thời gian cho phần liên hệ thực tế thì còn phải thường xuyên đưa ra những yêu cầu để học sinh về nhà tìm hiểu những hiện tượng địa lí tại địa phương mình có liên quan đến bài học trên lớp, suy nghĩ và giải thích nguyên nhân sau đó trình bày lại trước lớp trong thời gian thích hợp. Ngoài ra giáo viên cũng có thể tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Địa lí địa phương để tạo hứng thú cho học sinh mà vẫn đảm bảo cung cấp kiến thức theo yêu cầu của chương trình. Với quan điểm như vậy, bản thân tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và mạnh dạn thử nghiệm tổ chức một số hoạt động nhằm tạo nâng cao hiệu quả hoạt động giảng dạy địa lí địa phương và đã thu được kết quả khả quan.
- Là người tổ chức, chỉ đạo, điều khiển các hoạt động dạy học theo hướng tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh.
- Bằng việc thể hiện tốt vai trò thiết kế, ủy thác, điều khiển và thể chế hóa trong hoạt động dạy học của mình.
- Cần có sự đầu tư đúng mức cho việc giảng dạy Địa lí địa phương và phải được thể hiện trong kế hoạch giảng dạy của cả năm học. Bởi vì đây là công việc đòi hỏi có sự chuẩn bị trước và thực hiện thường xuyên.
- Thường xuyên thay đổi các hình thức giảng dạy để các em không nhàm chán.
- Đưa phần kiến thức Địa lí địa phương vào các đề kiểm tra. Nên dành cho phần liên hệ thực tế địa phương chiếm từ 15 đến 25% số điểm trong một bài kiểm tra, kể cả thi học kì. Đặc biệt các câu hỏi về Địa lí địa phương không chỉ nêu một số sự vật, hiện tượng mà cần phải có yêu cầu phân tích và trình bày quan điểm cá nhân về sự vật, hiện tượng đó.
- Cái cốt lõi cho mọi vấn đề là mỗi giáo viên phải làm tốt vai trò đạo diễn của mình trong hoạt động dạy và học. Thành công của mỗi phương pháp đều phụ thuộc vào tâm huyết các giáo viên đứng lớp. Chúng ta phải biết rằng xã hội đang cần những thế hệ tương lai đầy đủ kiến thức khoa học, biết ứng dụng kiến thức vào thực tiễn, có các kĩ năng sống cần thiết và luôn có tình yêu quê hương đất nước, luôn muốn góp phần chung tay xây dựng Tổ quốc Việt Nam trở nên giàu đẹp.
* Đối với học sinh:
- Trước đây, về phía học sinh, do sự quá tải của chương trình và tâm lý thực dụng chỉ tập trung học các môn, các nội dung liên quan đến thi cử nên rất ít quan tâm đến nội dung giáo dục địa phương. Hậu quả là rất nhiều học sinh đã học xong chương trình THPT nhưng kiến thức về địa phương rất hạn chế. Ngoài các tiết dạy Địa lí địa phương theo quy định, Thầy (Cô) chưa thường xuyên đưa kiến thức Địa lí địa phương vào bài giảng, hoặc nếu có cũng chỉ dừng lại ở mức dùng kiến thức Địa lí địa phương minh họa cho những kiến thức trong bài dạy. Vì vậy học sinh chỉ nhìn thấy các hiện tượng địa lí như: ở địa phương mình có khoáng sản gì? Có ngành công nghiệp gì, có cây trồng, vật nuôi gì…trong khi đó học sinh không có cơ hội để tìm hiểu sâu hơn một cách có hệ thống. Do đó, kiến thức Địa lí địa phương của học sinh thường nghèo nàn.
- Sau khi áp dụng phương pháp lồng ghép địa lí địa phương vào bài dạy, bước đầu đã đem đến niềm tin và sự hứng thú khi tìm hiểu và khám phá kiến thức trên chính quê hương mình.
- Phát huy hơn nữa tính tích cực, tự giác, chủ động và tư duy sáng tạo của học sinh.
- Bồi dưỡng phương pháp tự học.
- Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Người học tạo ra và duy trì những động lực học tập mạnh mẽ để tham gia tích cực vào quá trình dạy học, đó chính là động cơ, hứng thú và niềm lạc quan của học sinh trong quá trình học tập.
- Học sinh cần được nuôi dưỡng và phát triển ý thức trách nhiệm và khả năng tự đánh giá kết quả học tập của mình.
b. Cách thức thực hiện các bước:
- Một trong những cách làm hay được vận dụng nhiều trong những năm gần đây là giáo viên đưa các kiến thức Địa lí địa phương dưới dạng các ví dụ để phục vụ cho bài giảng. Bài giảng địa lí lúc đó không chỉ có tính thuyết phục, hấp dẫn mà còn làm cho học sinh nắm kiến thức chắc, nhớ kiến thức lâu. Bởi những kiến thức Địa lí địa phương là những hiểu biết rất đời thường, rất gần gũi, quen thuộc với các em được khái quát lên thành khái niệm, thành quy luật và thành tri thức mà các em cần phải nắm.
- Thực tế cho thấy, bộ môn địa lí khác với các môn khoa học tự nhiên khác ở chỗ: đối tượng nghiên cứu rất rộng, trải dài trên nhiều lãnh thổ và mỗi nơi lại có những nét đặc trưng. Vì thế, khi hình thành khái niệm địa lí (nhất là các khái niệm địa lí chung) không có gì tốt bằng việc giáo viên lấy ví dụ minh hoạ cho khái niệm là những sự vật, hiện tượng ở gần, thân thuộc với các em: một ngọn núi, một dòng sông… sẽ làm biểu tượng rõ nét hơn nhiều so với nơi khác. Các ví dụ minh họa gần gũi, thân quen phải là những điều học sinh đã từng nhìn, từng nghe thấy. Như vậy, bài giảng địa lí sẽ có tính thuyết phục cao hơn, gắn với thực tiễn cuộc sống nhiều hơn và học sinh cũng sẽ yêu thích môn địa lí hơn.
Tuy nhiên, để việc lồng ghép kiến thức Địa lí địa phương đạt hiệu quả cần đảm bảo nguyên tắc:
- Phải dựa vào nội dung bài học, nghĩa là các kiến thức Địa lí địa phương đưa vào bài học phải có mối quan hệ logic chặt chẽ với các kiến thức có sẵn trong bài học. Các kiến thức của bài học được coi như là cái nền làm cơ sở cho kiến thức Địa lí địa phương có chỗ dựa. Nói cách khác, dạy bài nào chúng ta cần nghiên cứu kỹ nội dung kiến thức của bài đó, từ đó mới đi tìm và lựa chọn các kiến thức phù hợp với nội dung của bài học.
- Các kiến thức đưa vào bài phải có hệ thống, tránh sự trùng lặp, phải thích hợp với trình độ của học sinh, không gây quá tải đối với nhận thức của các em trong việc lĩnh hội nội dung chính của bài học. Theo nguyên tắc này, những kiến thức đưa vào bài cần được sắp xếp đúng chỗ, hợp lý, làm cho kiến thức môn học thêm phong phú, sát với thực tiễn và logic của môn học. Bài học không bị phá vỡ, học sinh hứng thú học tập vì luôn được cung cấp những kiến thức mới.
Ví dụ 1: Chương trình Địa lí lớp 10
Khi dạy Bài 6 : “Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt Trời của Trái Đất”, phần chuyển động biểu kiến hàng năm của Mặt Trời, giáo viên nên cho học sinh tính thời gian Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Phú Quốc (Từ 9053’ đến 10028’B) và Kiên Giang (Từ 9023’50’’ đến 10032’30’’B)
Cách tính
Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ xích đạo lên chí tuyến Bắc hết 93 ngày. Vậy mỗi ngày Mặt Trời sẽ chuyển động biểu kiến được:
23027’’: 93 ngày = 15’8’’= 908’’
Vậy Mặt Trời chuyển động biểu kiến đến Phú Quốc:
Từ 9053’ B = 35580’’ đến 10028’B = 37680’’
Như vậy : 35580’’ : 908’’ = 39 ngày và 37680’’ : 908’’ = 41 ngày
Từ đó, ta tính được:
21 tháng 3 + 39 ngày = ngày 29 tháng 4
21 tháng 3 + 41 ngày = ngày 01 tháng 5
23 tháng 9 - 39 ngày = ngày 13 tháng 8
23 tháng 9 - 41 ngày = ngày 15 tháng 8
Như vậy, Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Phú Quốc là:
Lần 1: Từ ngày 29/4 đến ngày 01/5
Lần 2: Từ ngày 13/8 đến ngày 15/8
Tương tự như vậy, ta sẽ tính được ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh ở tỉnh Kiên Giang:
Lần 1: Từ ngày 27/4 đến ngày 02/5
Lần 2: Từ ngày 12/8 đến ngày 17/8
Sau khi học xong bài này, giáo viên có thể yêu cầu hoặc tổ chức cho các em kiểm nghiệm thực tế vào các ngày trên.
Ví dụ 2: Chương trình Địa lí lớp 10
Khi dạy Bài 9: “ Tác động của ngoại lực lên địa hình bề mặt Trái Đất” Giáo viên yêu cầu học sinh kể một số dạng địa hình xâm thực, mài mòn, bồi tụ tại địa phương và nguyên nhân tạo thành. Sau đó, giáo viên sẽ cho học sinh quan sát những hình ảnh mà mình đã chuẩn bị trước.
Ví dụ 3: Chương trình Địa lí lớp 10
Trước khi dạy Bài 24: “Phân bố dân cư và đô thị hóa”, Giáo viên yêu cầu học sinh hoặc nhóm học sinh tìm hiểu ảnh hưởng của đô thị hóa tại địa phương. Học sinh có thể quay phim, chụp hình về sự sầm uất trong hoạt động buôn bán, về mức sống cao của người thành thị… và bên cạnh đó là rác thải, là ô nhiễm môi trường…
Ví dụ 4: Chương trình Địa lí lớp 10
Trước khi dạy Bài 42: “Môi trường và sự phát triển bền vững”, Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm hiểu hoạt động khai thác tài nguyên tại địa phương. Ở huyện Phú Quốc, học sinh có thể tìm hiểu hoạt động khai thác hải sản, khai thác gỗ…từ đó đề ra các giải pháp để vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa bảo vệ môi trường. Sau đó, đại diện nhóm sẽ trình bày trước lớp và cả lớp sẽ thảo luận.
Ví dụ 5: Chương trình Địa lí lớp 12
Khi dạy Bài 30: “Giao thông vận tải và thông tin liên lạc”, Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm hình ảnh về thực trạng ngành giao thông vận tải và thông tin liên lạc tại địa phương và đề xuất một số giải pháp sau đó trình bày và thảo luận trước lớp. Hoặc giáo viên có thể nêu hoặc yêu cầu học sinh nêu các loại đường giao thông có ở địa phương, thực trạng phát triển giao thông, cơ sở vật chất ngành bưu chính, sự phát triển ngành viễn thông tại địa phương…
Ví dụ 6: Chương trình Địa lí lớp 12
Khi dạy Bài 31: “Vấn đề phát triển thương mại và du lịch”: Ở phần du lịch, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm hiểu về du lịch của địa phương: những tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất…
3.3/ Khả năng áp dụng của giải pháp
- Giải pháp này hoàn toàn có thể áp dụng rộng rãi cho rất nhiều bộ môn trong và ngoài Nhà trường.
- Đối tượng tham gia, có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp trong chương trình giáo dục phổ thông.
3.4/ Những kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm sau khi thực hiện
- Sau một thời gian thực hiện, tôi nhận thấy kết quả thu được rất khả quan.
3.4.1/ Về phía học sinh
Thứ 1: Học sinh nắm được, nhớ được kiến thức địa lí của địa phương.
Thứ 2: Từ các kiến thức địa lí của địa phương các em có thể khái quát để hiểu đuọc các kiến thức địa lí chung.
Thứ 3: Học sinh có cơ hội tìm hiểu thực tế, chủ động tìm đến kiến thức thông qua thực tế.
Thứ 4: Học sinh rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng quan sát, phân tích, tổng hợp, trình bày một vấn đề và bảo vệ ý kiến trước tập thể.
Thứ 5: Học sinh tìm được hứng thú trong việc học bộ môn địa lí.
3.4.2/ Về phía giáo viên
- Giáo viên sẽ giảm được việc thuyết trình trong các tiết dạy, đặc biệt là các tiết dạy về Địa lí địa phương.
- Hỗ trợ giáo viên trong quá trình giảng dạy theo phương pháp mới, định hướng năng lực cho học sinh.
- Tất cả các môn học đều có quan hệ mật thiết với cuộc sống xung quanh các em. Vì vậy, không thể dạy học nói chung và dạy Địa lí nói riêng đạt được kết quả nếu không gắn liền với thực tế. Ngoài ra với yêu cầu gắn giáo dục với thực tiễn, gắn lý thuyết với thực hành thì giảng dạy Địa lí không thể thiếu phần Địa lí địa phương.
- Không chỉ vậy, với tinh thần của việc đổi mới phương pháp dạy học thì giáo viên không chỉ dạy đủ kiến thức mà còn phải tạo được hứng thú cho học sinh trong quá trình giảng dạy. Vì thế có thể nói các giải pháp của đề tài đã góp phần giải quyết được cả về mặt lí luận và thực tiễn trong giáo dục hiện nay.
- Sau đây là một số kết quả thống kê khảo sát về kiến thức Địa lí địa phương của học sinh trước và sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này ở các lớp tôi trực tiếp giảng dạy tại trường THPT Phú Quốc:
1. Tỉ lệ học sinh lớp 10 biết được ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh ở huyện Phú Quốc và tỉnh Kiên Giang:
Lớp |
10A1 |
10A3 |
10A5 |
10A7 |
10A9 |
Tỉ lệ |
40,5% |
66,1% |
94,4% |
53,4% |
20,8% |
2. Tỉ lệ học sinh lớp 10 biết được các dạng địa hình tại địa phương và nguyên nhân hình thành:
Lớp |
10A1 |
10A3 |
10A5 |
10A7 |
10A9 |
Tỉ lệ |
95,5% |
88,2% |
100% |
70% |
11,2% |
3. Tỉ lệ học sinh lớp 10 biết được những tác động và ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tại Phú Quốc:
Lớp |
10A1 |
10A3 |
10A5 |
10A7 |
10A13 |
Tỉ lệ |
90,3% |
85,4% |
100% |
60,3% |
58,7% |
4. Tỉ lệ học sinh lớp 10 kể tên được những tác động tiêu cực khi khai thác tài nguyên hải sản và lâm sản ở địa phương và đưa ra một số biện pháp để hạn chế:
Lớp |
10A1 |
10A3 |
10A5 |
10A7 |
10A9 |
Tỉ lệ |
77,6% |
86,5% |
94,1% |
53,2% |
49,2% |
5. Tỉ lệ học sinh lớp 12 nêu được các loại hình giao thông có ở địa phương, thực trạng phát triển giao thông, cơ sở vật chất ngành bưu chính, sự phát triển ngành viễn thông tại địa phương:
Lớp |
12C1 |
12C2 |
12C7 |
12C10 |
Tỉ lệ |
96,9% |
94,5% |
54,3% |
52,2% |
6. Tỉ lệ học sinh lớp 12 kể tên được các điểm du lịch và thực trạng sử dụng nguồn tài nguyên du lịch ở địa phương:
Lớp |
12C1 |
12C2 |
12C7 |
12C10 |
Tỉ lệ |
98,4% |
84,8% |
73,6% |
55,3% |
- Qua kết quả khảo sát trên, chúng ta thấy những hiểu biết của học sinh về kiến thức địa lí địa phương tăng lên đáng kể. Và từ những kiến thức đó các em có thể hiểu các kiến thức đại cương dễ dàng hơn. Đồng thời giáo dục cho học sinh ý thức quan tâm đến những vấn đề xung quanh, ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng tình yêu quê hương đất nước. Thông qua các hoạt động tìm hiểu, thảo luận, viết bài dự thi sẽ rèn luyện cho các em nhiều kỹ năng quan trọng.
3.5/ Tài liệu kèm theo
Kiên Giang, ngày 12 tháng 12 năm 2017 |
Người mô tả
Nguyễn Thị Châm |