HƯỚNG DẪN TỰ HỌC MÔN NGỮ VĂN - LỚP 12 (TUẦN 6)
Tổ Ngữ văn
2020-03-25T21:37:45-04:00
2020-03-25T21:37:45-04:00
http://thptphuquoc.edu.vn/bai-viet-26/huong-dan-tu-hoc-mon-ngu-van-lop-12-tuan-7-362.html
/themes/default/images/no_image.gif
Trường THPT Phú Quốc
http://thptphuquoc.edu.vn/uploads/baner-thpt-phu-quoc.jpg
Thứ tư - 25/03/2020 21:36
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
(Trích)
Lưu Quang Vũ
I. Tìm hiểu chung
1.Tác giả
- Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), quê gốc Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình tri thức, cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, nên thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ.
- Từ năm 1965 đến năm 1970, ông vào bộ đội, phục vụ trong quân chủng Phòng không – không quân.
- Từ năm 1970 đến năm 1978, ông xuất ngũ và làm đủ nghề để mưu sinh: họp đồng cho NXB Giải phóng, chấm công trong đội cầu đường, vẽ pa – nô, áp – phích,...
- Từ năm 1978 đến năm 1988, ông là BTV tạp chí Sân khấu và bắt đầu sáng tác kịch nói - với vở kịch Sống mãi tuổi 17 (Viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ).
- Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng: làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ tranh và soạn kịch,... nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ.
- Ông là hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỷ XX, nhà soạn kịch tài năng nhất của nần văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ Kịch: Sống mãi tuổi 17, Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Chết cho điều chưa có, Nếu anh không đốt lửa, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta, Hồn Trương Ba, da hàng thịt....
+ Thơ: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu...tập thơ Hương cây ( 1986 in chung trong tập Hương cây - Bếp lửa), Mây trắng của đời tôi (1989).
+ Tiểu luận: Diễn viên và sân khấu (1979)....
- Năm 2000, ộng được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất. Ông được coi là một trong những hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
2. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt:
- Vở kịch được Lưu Quang Vũ viết vào năm 1981, được công diễn vào năm 1984.
- Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
3. Đoạn trích
Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo", nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
II/ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Cuộc đối thoại giữa hồn trương Ba và xác anh hàng thịt:
- Do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào, Trương Ba phải chết một cách vô lí, Nam Tào sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba sống nhờ thể xác anh hàng thịt.
- Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính thẳng thắn của Trương Ba dần dần bị xác thịt thô phàm anh hàng thịt sai khiến, bị nhiễm độc.
- Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ: "- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!”
- Hồn Trương Ba quyết định chống lại bằng cách tách khỏi xác để tồn tại độc lập, không còn bị lệ thuộc.
- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế đuối lí, bất lợi.
-Ý nghĩa của đoạn đối thoại:
+ Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng lại là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.
+ Tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu sẽ bị dung tục ngự trị, lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người thân:
- Vợ Trương Ba:
+ Buồn bã, đau khổ vì: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa".
+ Đòi bỏ đi, nhường Trương Ba cho vợ anh hàng thịt.
- Con dâu Trương Ba:
+ Thấu hiểu cho hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng: Chị biết ông "khổ hơn xưa nhiều lắm".
+ Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình khiến chị không thể chịu được: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng … mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần…"
- Cháu gái Trương Ba: phản ứng quyết liệt và dữ dội
+ Nó khước từ tình thân: “tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi”.
+ Nó không thể chấp nhận con người đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó.
+ Nó hận vì ông đã làm gãy nát cái diều khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền.
+ Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nó xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".
à Người chồng, người cha, người ông trong sạch, nhân hậu trước đây đã và đang thành một kẻ khác, với những thói hư tật xấu của một tên đồ tể thô lỗ, phàm tục.
- Tâm trạng, cảm xúc của Trương Ba:
+ Ông đau khổ, tuyệt vọng khi vì ông mà tất cả những người thân phải đau đớn, bàng hoàng, bế tắc, vì ông mà nhà cửa tan hoang.
+ Ông thẫn thờ, ôm đầu bế tắc, cầu cứu cháu gái, run rẩy trong trong nỗi đau, …
+ Đặt những câu hỏi mang tính tự vấn: …
+ Khẳng định dứt khoát: …
à Trương Ba cũnh nhận thấy những thay đổi của mình nên đấu tranh quyết liệt để giành giật lại bản thân mình, dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích.
3. Cuộc đối thoại của Trương Ba với Đế Thích
- Hồn TB không chấp nhận cảnh sống bên trong một đằng, một ngoài một nẻo. Ông muốn được sống theo đúng bản chất của mình: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
- Đế Thích khuyên Hồn Trương Ba nên chấp nhận. Hồn Trương Ba kiên quyết chối từ và kêu gọi Đế Thích sửa sai bằng việc làm cho cu Tị sống lại.
- Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
+ Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn…
+ Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!.
Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này.
+Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.
+Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
+ Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Qua màn đối thoại, ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo, bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, tự nhiên. Đó chính là chất thơ trong kịch của Lưu Quang Vũ
4. Đoạn kết
- Lời cuối cùng của Trương Ba: “Tôi vẫn ở đây”. Cái chết không phải là sự ra đi vĩnh viễn. Con người sẽ bất tử với những điều tốt đẹp họ đóng góp cho cuộc đời, sẽ sống mãi trong tâm hồn những người thân yêu. Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời
-Hành động của cái Gái vùi những hạt na xuống đất: Cái chết là điều tự nhiên, cuộc sống vẫn tiếp tục với những thế hệ thay nhau mà lớn khôn.
-Kết thức vở kịch, Hồn Trương Ba chấp nhận cái chết, môt cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực
- Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan và truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của sự sống đích thực, của chân, thiện, mỹ.
III/Tổng kết
1. Chủ đề: Từ một truyện cổ dân gian Lưu Quang Vũ đã đưa ra một quan niệm cao đẹp về cách sống: Hãy sống chân thật với chính mình, phải biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới nhưng giá trị tinh thần cao quý.
2. Nghệ thuật
- Sáng tạo cốt truyện dân gian
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống,…
3. Ý nghĩa văn bản
Một trong những điều quý giá nhất của mỗi con người là được sống là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống trong sự hài hòa tự nhiên giữa thể xác và tâm hồn.
THỰC HÀNH
1. Phân tích nhân vật Hồn Trương Ba, nhân vật bi kịch trong đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
2. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, có một lời thoại quan trọng “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Anh/chị hãy phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt để làm sáng tỏ lời thoại trên.
3. Kịch Lưu Quang Vũ giàu giá trị nhân văn. Anh/chị hãy phân tích đoạn trích cảnh VII Hồn Trương Ba, da hàng thịt trong sách giáo khoa để làm rõ điều đó.
Tác giả bài viết: Tổ Ngữ văn
prescription drugs from canada online pharmacies
shoppers drug mart pharmacy https://nienalo.strikingly.com/