NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
Nguyễn Thi
I. TÌM HIỂU CHUNG
1/ Tác giả:
Nguyễn Thi (1928 – 1968) tên khai sinh Nguyễn Hoàng Ca,( bút danh khác: Nguyễn Ngọc Tấn), quê ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Nguyễn Thi mồ côi cha sớm, mẹ đi bước nữa, Nguyễn Thi phải chịu vất vả từ nhỏ.
Năm 1943, ông vào Sài Gòn vừa đi làm vừa tự học. Năm 1945, ông tham gia cách mạng vừa chiến đấu, vừa hằng hái hoạt động văn nghệ.
Năm 1954, Nguyễn Thi tập kết ra Bắc, công tác ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội một thời gian rồi lại tình nguyện vào Nam đánh giặc. Ông hi sinh anh dũng ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968.
Cuộc đời đầy tủi cực đã tạo nên ở Nguyễn Thi một tâm hồn giàu suy tư, hiểu đời, hiểu người. Là người miền Bắc nhưng Nguyễn Thi gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ.
Nguyễn Thi có biệt tài phân tích tâm lý nhân vật, thâm nhập vào nội tâm nhân vật để khám phá chiều sâu của những tính cách, cá tính mãnh liệt. Những trang viết của ông, do vậy, vừa giàu chất trữ tình vừa đậm chất hiện thực. Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung đó là: Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao. Họ là những con người dường như sinh ra để đánh giặc. Tính chất Nam bộ ở họ cũng được thể hiện rõ như: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, trung hậu, đảm đang, giàu tình nghĩa, …
Ngôn ngữ văn xuôi của Nguyễn Thi phong phú, góc cạnh, giàu giá trị tạo hình, đậm chất nam Bộ.
Sáng tác của Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Sau khi ông hy sinh, tác phẩm của ông được tập hợp lại và in trong tập Truyện và kí. Những tác phẩm được biết đến hiều nhất của Nguyễn Thi là : Người mẹ cầm súng, Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình….
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kí chống Mĩ cứu nước. Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.
2/ Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. Sau được in trong Truyện và Kí của Nguyễn Thi, NXB Văn học Giải phóng, 1978.
3/ Tóm tắt tác phẩm:
Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau đi tòng quân đánh giặc để báo thù cho ba má, để giải phóng quê hương, tiếp tục trang sử anh hùng của gia đình. Chị Chiến không cho Việt đi vì Việt chưa đủ 18 tuổi. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận..
Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được sáu tên Mĩ lẻ và một xe bọc thép đầy Mĩ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội,….Một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và xác giặc. Việt ngất đi, tỉnh lại bốn lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình,về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… .
Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân nhức buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”.
Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều tranh nhau đi tòng quân, Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được đi . Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến. Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.
Sáng hôm sau , hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình “thương chị lạ”.
Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến, sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt không muốn kể chiến công của mình do tự thấy nó chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và những mong ước của má.
* Chủ đề:
Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, thủy chung với quê hương, son sắt với cách mạng. Qua đó, nhà văn khẳng định : Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
1/ Tình huống truyện và nghệ thuật trần thuật của tác phẩm.
a) Tình huống truyện:
Câu chuyện được trần thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt – Một chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi, vốn tính hồn nhiên nhưng giàu tình cảm. Khi bị trọng thương, lạc đơn vị, đơn độc giữa chiến trường còn nóng bỏng bom đạn, Việt đã ngất đi tỉnh lại bốn lần. Mỗi lần tỉnh, Việt nhớ về một kỉ niệm da diết gắn bó đời mình với những người thân trong gia đình (ba, má, chú Năm, chị Chiến..), những đồng đội gần gũi (anh Tánh, anh Công...). Trong những hồi ức ấy của Việt, đáng chú ý nhất là kỉ niệm của Việt và chị Chiến đăng kí đi tòng quân rồi sắp xếp việc nhà để thanh thản lên đường trả thù cho gia đình, góp sức trẻ cứu nước.
b) Nghệ thuật trần thuật của tác phẩm:
Truyện trần thuật theo ngôi thứ ba của người kể tự giấu tên mình nhưng điểm nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật (lời nửa trực tiếp). Cách trần thuật như thế đã đem lại cho tác phẩm âm điệu trữ tình, màu sắc tự nhiên, tươi trẻ, sống động. Diễn biến các sự việc, chi tiết có thể bị xáo trộn, không theo trình tự thời gian nhưng không rối, trái lại nó tạo không khí vừa thực vừa mơ. Các nhân vật nói và hành động, cả hình hài và vóc dáng cũng khi ẩn khi hiện trong ý thức và tiềm thức, lúc dung dị, gần gũi, lúc thiêng liêng, xa mờ,....Rất phù hợp với hồi ức của Việt. Giúp nhà văn mở rộng không gian, kéo dài thời gian, kích thướt của câu chuyện. Nới rộng mà vẫn cô đúc trong tâm tư, cảm xúc của nhân vật chính, tô đậm tính cách của nhân vật khác. Qua kiểu trần thuật hồi tưởng nhà văn có điều kiện đi sâu phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật một cách sắc sảo, tinh tế.
2/ Những nhân vật nối tiếp và phát huy truyền thống gia đình:
- Nhân vật chị Chiến:
* Rất giống mẹ cả về ngoại hình và tính cách:
Chiến giống mẹ ở ngoại hình, ở sự đảm đang, tháo vát: “ Hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng…., thân người to và chắc nịch” gợi ta nhớ đến hình ảnh người mẹ: “ Bắp chân tròn vo lúc nào cũng dính đất”, “bàn tay to bản”, “hai con mắt sắc ánh lên”,….Chiến và mẹ là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ nam Bộ: Mạnh mẽ, khỏe khoắn về thể chất. Mẫu người sinh ra để gánh vác, để chống chọi, “ vượt sông vượt biển”, để chịu đựng và để chiến thắng.
Chiến còn giống mẹ từ lời ăn, tiếng nói đến hành động: Trong đêm hai chị em sắp xếp việc nhà để đi tòng quân, trước những điều Chiến nói, Việt có cảm giác: “Chị Chiến bữa nay nói in như má vậy”. Hay chính chị Chiến nói với em “Tao cũng lựa ý nếu má còn sống thì má cũng tính như vậy”.
* Là một cô gái mới lớn nên tính cách còn giữ được nét hồn nhiên, ngây thơ có phần trẻ con.
- Khi ở nhà: Tuy thương em nhưng lại hay giành với em: Khi đi bắt ếch thì giành phần nhiều với em; giành với em chiến công diệt thằng Mĩ trên sông Định Thủy, giành đi bộ đội. Nhưng cuối cùng lại nhường em.
- Khi đi tòng quân: chị Chiến vẫn bọc theo cái gương soi.
* Chị Chiến rất thương em, chị biết suy nghĩ chín chắn: Chiến không chịu cho em đi tòng quân vì thương em còn nhỏ mà phải đương đầu với nguy hiểm, tàn khốc của chiến tranh. Chị giành đi với em là vì chị muốn nhường cho em sự an toàn, yên ổn, giành sự khó khăn nguy hiểm về cho mình.
* Chiến là cô gái đảm đang tháo vát, thương cha thương mẹ, gắn bó và trân trọng truyền thống gia đình, có ý thức học tập, tiếp nối truyền thống gia đình:
Chị Chiến đánh vần từng chữ để đọc cuốn sổ gia đình từ sáng tới xế chiều, bỏ cả ăn.
Trước khi đi tòng quân, chị Chiến đã sắp đặt công việc gia đình sao cho trọn nghĩa, vẹn tình với những người thân. Từ việc viết thư báo cho chị hai đến việc gửi thằng út em, căn nhà, công mía, vật dụng trong gia đình, nấu cơm cúng ông bà trước khi dời bàn thờ sang gửi chú Năm….. khiến chú Năm phải khen ngợi: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây đánh giặc kì này khôn hơn tụi tao ngày trước”..:
* Mất mát và đau thương khiến chị căm thù giăc sâu sắ́c, gan góc, dũng cảm, lâp nhiều chiến công:
Khi chú Năm dặn: “...Thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”. Chị Chiến khẳng định chắc nịch với em như một lời thề: “ Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.
Khi đi tòng quân: Chị chiến đấu rất anh dũng và lập được nhiều chiến công: Chị đã chỉ huy tiểu đội bắn tông lông, là tiểu đội trưởng đội nữ du kích địa phương.
- Chị Chiến vừa có những điểm giống má vừa có những nét riêng: Chiến vừa khôn ngoan, già dặn trước tuổi. Chị thu xếp việc nhà hết sức gọn gàng và hợp tình hợp lý. Chị chiến đấu dũng cảm và có ý thức sâu sắc trách nhiệm của tuổi trẻ. Chiến vừa có những điểm giống má vừa có những nét riêng. Chiến khôn ngoan, già dặn trước tuổi. Chị thu xếp việc nhà hết sức gọn gàng và hợp tình hợp lý. Chị chiến đấu dũng cảm và ý thức rất sâu sắc trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc tiếp nối truyền thống cha ộng.
b) Nhân vật Việt:
* Việt có nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn:
Rất hồn nhiên, thích câu cá, bắn chim, phó mặc tất cả cho chị, hay tranh giành với chị, đi chiến đấu vẫn mang súng cao su trong người.
Trong đêm trước ngày nhập ngũ, trong khi chị Chiến lo toan chu đáo mọi việc, bàn bạc việc nhà với em một cách nghiêm túc thì Việt vẫn vô tư “ lăn kềnh ra ván cười khì khì”, vừa nghe vừa “ chụp một con đom đóm úp trong lòng tay” rồi “ngủ quên lúc nào không biết”
Đi đánh giặc rất hăng hái, không sợ chết nhưng lại sợ ma. Bị trọng thương, nằm lại chiến trường, không hề sợ hãi, không khóc nhưng khi gặp đồng đội thì “ vừa cười vừa mếu như con nít”.
Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con. Việt “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị.
Cách Việt hình dung về cái chết cũng rất trẻ con: “ chết là người thật nằm dưới nền nhà, còn người giả thì bay lên nốc nhà”….
->Việt là một chàng trai mới lớn, vô tư, hiếu động, rất mực đáng yêu.
* Việt có lòng căm thù giặc sâu sắc, cùng một ước nguyện được cầm súng đánh giặc trả thù cho ba má, có một tính cách anh hùng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường. Trong anh có dòng máu của những người gan góc, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do:
Khi còn bé, Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc quăng đầu ba mà đá. Dùng ná thun bắn chốc bịch để báo hiệu cho mọi người khi có lính.
Việt nằng nặc xin đi tòng quân để trả thù cho ba má, bảo vệ quê hương dù chưa đủ tuổi và chị Chiến hết mực ngăn cản.
Với lời dặn của chú Năm: “...Thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu” thì Việt cũng có cùng một lời hứa quyết tâm diệt giặc với chị Chiến, Việt bảo chị: “ Chị có bị chặt đầu thì bị chặt chứ chừng nào tôi mới bị”.
Vào trận, Việt chiến đấu dũng cảm, lập được chiến công lớn: Việt diệt được sáu tên Mĩ lẻ và một xe bọc thép đầy Mĩ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội. Dù bị thương nhưng Việt vẩn kiên cường, dũng cảm (bị thương nặng, mắt không thấy gì, người khô khốc, đói lả, phải nằm lại chiến trường nhưng Việt vẫn quyết tâm chiến đấu đến cùng, ngón tay trỏ lúc nào cũng để trên cò súng và đạn đã lên nòng. Việt nghĩ: “ Tao sẽ chờ mày, trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày...”
* Việt có tình yêu thương gia đình sâu đậm:
Một mình nằm lại chiến trường với ngổn ngang dấu vết của đạn bom và xác giặc. Việt ngất đi, tỉnh lại bốn lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình,về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… đặc biệt là kỉ niệm khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm.
-> Việt là nhân vật tiêu biểu, nòng cốt cho thế hệ trẻ Miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là “ khúc sông sau” nhưng Việt có khả năng đi xa, mạnh mẽ và quyết liệt nhất trong dòng sông truyền thống gia đình.
=> Việt và Chiến mang vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ : trẻ trung, gan dạ, giàu tình yêu thương nhưng cũng rất anh hùng, dũng cảm. Họ là hai ‘khúc sông” trong dòng sông truyền thống của gia đình đó cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam. Hai chị em là sự tiếp nối thế hệ chú Năm và má Việt, song lại mang dấu ấn riêng của thế hệ trẻ miền Nam thời đánh Mĩ. Qua hai nhân vật Việt, Chiến, Nguyễn Thi đã làm sáng lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm: chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
* Chi tiết hai chị em khiêng bàn thờ má sang gởi nhà chú Năm:
+ Chi tiết tạo không khí thiêng liêng, xúc động cho truyện.
+ Nó tác động đến tính cách của Việt: lần đầu tiên Việt thấy rõ lòng mình (thương chị lạ, cảm thấy mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được vì nó đang đè nặng trên vai).
+ Đây là hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng thể hiện sự trưởng thành của hai chị em có thể gánh vác việc gia đình và viết tiếp khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống gia đình. Hơn thế nữa, thế hệ sau cứng cáp, trưởng thành và có thể đi xa hơn.
2/ Nghệ thuật:
- Tình huống truyện đặc biệt, được đặt trong hoàn cảnh khác thường.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Tác giả khắc hoạ tính cách n/vật đậm chất Nam Bộ : thẳng thắn, bộc trực, lạc quan; yêu mãnh liệt, thuỷ chung đến cùng, căm thù ngùn ngụt,…
+ Nghệ thuật dựng đối thoại và độc thoại nội tâm hấp dẫn, cảm động,…
- Nghệ thuật trần thuật : Tác giả đã để cho Việt tự kể chuyện mình bằng một ngôn ngữ, giọng điệu riêng và qua đó nhân vật hiện lên cụ thể, sinh động.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh.
- Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
- Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh,…
- Xây dựng tình huống truyện và nghệ thuật trần thuật độc đáo.
3/ Ý nghĩa:
Qua câu chuyện về những người con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung với quê hương, với cách mạng, nhà văn khẳng định: Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
4/ Những biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong truyện.
- Chất sử thi của thiên truyện được thể hiện qua cuốn sổ của gia đình với truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương.
- Cuốn sổ là lịch sử gia đình mà qua đó thấy lịch sử của một đất nước, một dân tộc trong cuộc chiến chống Mĩ.
- Số phận của những đứa con, những thành viên trong gia đình cũng là số phận của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt.
- Truyện của một gia đình dài như dòng sông còn nối tiếp: "Trăm dòng sông đổ vào một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm…, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta…". Truyện kể về một dòng sông nhưng nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả. Truyện về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.
- Mỗi nhân vật trong truyện đều tiêu biểu cho truyền thống, đều gánh vác trên vai trách nhiệm với gia đình, với Tổ quốc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Họ là những con người:
+ Có lòng căm thù giặc sâu sắc.
+ Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu chống giặc, bảo vệ quê hương, Tổ quốc.
+ Giàu tình nghĩa, rất mực thủy chung, gắn bó sắc son với quê hương và cách mạng.
III. TỔNG KẾT: Ghi nhớ SGK
BÀI TẬP LUYỆN TẬP
1. Xây dựng hai nhân vật Việt, Chiến, Nguyễn Thi đã làm nổi bật vẻ đẹp của thế hệ thanh niên thời chống Mĩ. Hãy chỉ rõ những điểm giống và khác nhau ở hai nhân vật Chiến và Việt
2. Nêu những nét nổi bật về nghệ thuật của truyện ngắn?
3. Những biểu hiện của khuynh hướng sử thi qua truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” ( Nguyễn Thi)?
4. Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn thi có lời thoại:“Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Lời nói trên của nhân vật nào? Nói về những ai? Thể hiện thái độ gì với người được nói tới?
5. Dù hay tranh nhau với em nhưng cuối cùng lúc nào chiến cũng nhường em. Có một việc Chiến kiên quyết không nhường đó là việc gì? Vì sao Chiến lại không nhường cho em? Qua đó ta thấy được phẩm chất gì của Chiến?